Khí Nitrit (NO2) là một loại khí độc được sinh ra trong quá trình phân hủy hữu cơ của một số loài vi khuẩn đặc trưng. Cụ thể thì quá trình đó gọi là Nitrite hóa do nhóm vi khuẩn Nitrosomonas và Nitrobacter chuyển hóa amonium (NH4+) thành nitrit (NO2) và nitrat (NO3). Đây là nhóm vi khuẩn tự dưỡng cần dùng năng lượng thu được từ quá trình nitrit hóa và nitrat hóa này.
Trước tiên phải trả lời câu hỏi: Những biểu hiện đầu tiên cho thấy tôm nhiễm khí độc là gì? Đó là thấy tôm xuất hiện, bơi lội trên mặt nước, dọc mé bờ, nổi đầu lúc sáng sớm, chiều mát. Thời điểm trên, NO2 kết hợp với Hemocyanin trong máu tôm, tạo thành Mehemoglobin, làm mất khả năng vận chuyển oxy trong máu, từ đó khiến tôm nuôi bị thiếu oxy. Nền đáy ao nuôi chuyển đen, mùi hôi, ao nhiều bong bóng bọt khí sậm màu, bong bóng khó vỡ, nước keo, nhớt, tanh hôi.
Tôm tập trung khu vực sạch, nơi quạt nước, sủi oxy hoạt động. Hàm lượng oxy trong ao giảm xuống ≤ 4 mg/lít, có xu hướng tiếp tục giảm khi hàm lượng khí độc NO2 tăng dần. pH trong ao tăng cao, thời điểm này, phân huỷ hữu cơ chủ yếu sinh khí độc NH3, nguyên liệu tạo khí độc NO2 rất dồi dào. Tôm giảm ăn từ từ đến bỏ ăn, thời gian canh vó kéo dài. Tôm khó lột xác, lột xác dính vỏ, vỏ lâu cứng, tôm tăng trưởng chậm, xuất hiện tôm chết trong vó, nền đáy nơi hố siphon.
Trên thực tế, con số giới hạn khuyến cáo hàm lượng khí độc NO2 trong ao ≤ 1 ppm, chúng tôi thừa nhận, vẫn có những ao ngoại lệ, khi hàm lượng khí độc NO2 vượt con số giới hạn cho phép trên, tôm vẫn phát triển, tuy nhiên, cần khẳng định, những trường hợp này rất ít. Trong môi trường nuôi tôm thẻ chân trắng độ mặn thấp, việc chênh áp suất thẩm thấu giữa cơ thể tôm và môi trường gây rối loạn cân bằng, khi đó sự cạnh tranh giữa hai ion NO2- và Cl-, tôm khó lột xác, lột xác bị mềm vỏ, chậm lớn. Đây là thời điểm để ngoại ký sinh, vi khuẩn tấn công, phá huỷ tổ chức mang, tôm mất khả năng trao đổi oxy, gây bệnh đốm đen, thủng cơ, khiến tôm chết hàng loạt.
Bà con cần sên, vét, cải tạo, loại bỏ tối đa bùn đáy ra khỏi ao trước vụ nuôi mới. Nguồn nước trước khi dùng nuôi tôm cần được lắng, lọc, xử lý kỹ đảm bảo đúng hoá chất tương ứng công đoạn, đủ liều lượng, đảm bảo thời gian cần thiết. Các hoá chất thuốc tím KMnO4, chất lắng tụ PAC[Al2(OH)nCl6-n]m hay Al2O3, diệt khuẩn bằng chlorin Ca(OCl)2. Hạn chế sử dụng nước cũ cho vụ nuôi mới, trong trường hợp bắt buộc dùng, cần xử lý triệt để bằng các hoá chất trên.
Trong quá trình nuôi, khi NO2 tăng cao cần thay 40 – 50 % nước là biện pháp thực hiện nhanh, giảm nhanh hàm lượng khí độc NO2, cải thiện tức thời hàm lượng oxy trong ao. Bón Zeolite ( ZEO ramin) kết hợp Yucca và oxy hạt, lượng cho mỗi loại theo hướng dẫn sản phẩm.
Tăng cường oxy trong ao thông qua quạt nước, sủi oxy. Bà con nên chọn chế phẩm sinh học có thành phần vi sinh phân huỷ hữu cơ như Bacillus, Thiobacillus, Clostridium, Lactobacillus, Nitrosomonas, Nitrobacteria, kết hợp các enzyme hữu cơ, xúc tác cho quá trình phân hủy của các vi sinh vật như: Protease, Phytase, Lypase, Amyllase, Cellulace, Chitinnase… Sivibac hỗ trợ oxy để vi khuẩn có lợi tồn tại, nhân sinh khối, tham gia chuyển hoá NH3, NO2 thành NO3, N2…
Giảm và giữ ổn định pH bằng phèn nhôm Al2(SO4)3.14H2O, liều 5 kg phèn nhôm/1000m3 nước, giữ pH ổn định ở mức 7,5 – 8,2, tác động chủ động lên quá trình phân huỷ hữu cơ, sinh ammonium NH4, hạn chế sinh NH3, cắt nguồn tạo NO2 trong ao.
Không chế tảo, thông qua kiểm soát thức ăn, ngăn tảo lấy từ thức ăn dư thừa làm nguồn dinh dưỡng. Siphon, hút hố gar 2 – 3 lần/ngày, loại bỏ vỏ tôm, xác tôm chết, phân tôm…
Đáp ứng 80 – 90 % nhu cầu thức ăn của tôm, tốt hơn thoả mãn 100 % nhu cầu. Kiểm soát chặt chẽ việc cho ăn thông qua vó ăn. Bổ sung vi sinh Bacillus, Lactic acid bacillus, Fructo Oligosaccharides, 1-3,1-6 Beta Glucans, Oligo Saccharides… kết hợp enzyme Phytase vào trong thức ăn. Bổ sung khoáng chất, đặc biệt là khoáng hữu cơ.
Sử dụng các acid amin tổng hợp để cân đối nhu cầu acid amin trên tôm sú không hiệu quả bằng phối hợp các nguyên liệu