Cá rô phi có thân màu hơi tím, vảy sáng bóng. Vây đuôi có màu sọc đen sậm, vây lưng có những sọc trắng chạy song song trên nền xám đen. Viền vây lưng và vây đuôi có màu hồng nhạt.
Cá rô phi là loài ăn tạp, ăn hầu hết các sinh vật trong ao, cả mùn bã hữu cơ, có khả năng làm sạch môi trường, tiêu diệt các loài động vật nhỏ mang mầm bệnh. Cá rô phi dễ nuôi và dễ thích nghi với nhiều môi trường khác nhau ở nước ngọt, nước mặn, nước phèn nhẹ, chịu được cả ở nguồn nước có hàm lượng NH3 tới 2,4 mg/lít và lượng oxy hòa tan chỉ có 1 mg/lít.
Cá rô phi nuôi phổ biến hiện nay là rô phi vằn, rô phi xanh và diêu hồng (rô phi đỏ) thuộc giống Oreochromis. Thịt cá rô phi ngọt, bùi, giàu khoáng, ít mỡ, lượng đạm vừa phải. Trong đông y có vị ngọt, tính bình, không độc, có tác dụng bồi bổ cơ thể.
Cá rô phi hầu như sinh sản quanh năm, khoảng cách giữa hai lần đẻ cách nhau 20-30 ngày. Đầu tiên con đực sẽ làm tổ dưới đáy ao, tìm con cái ghép đôi và đẻ trứng. Sau đó con cái có nhiệm vụ ấp trứng trong khoang miệng tới khi hết noãn hoàng thì phóng thích cá con ra ngoài. Do đó, thường thì con đực lớn nhanh hơn con cái từ 15-18% sau 4 tháng nuôi vì trong suốt quá trình ấp trứng cá cái không bắt mồi. Vì vậy, nuôi cá rô phi thương phẩm hiện nay hầu như đều là mô hình nuôi đơn tính đực nhằm mục đích thu được lượng thịt cao hơn. Dưới đây là kỹ thuật nuôi cá rô phi đơn tính trong ao.
Ao nuôi thông thoáng, tốt nhất là hình chữ nhật, dọn sạch cây cỏ trên bờ ao. Tu sửa bờ ao chắc chắn, hệ thống cống rãnh riêng biệt. Bờ ao phải đủ cao để đảm bảo độ sâu của nước, có nguồn nước chủ động và gần đường giao thông để thuận tiện cho việc chăm sóc, cho ăn, thu hoạch.
Điều kiện thích hợp cho nuôi cá rô phi thương phẩm: nhiệt độ 26-30oC, pH từ 7-8, oxy hòa tan lớn hơn 4mg/lít, độ trong 30-40cm, độ sâu 1,2-1,5m.
Tháo cạn hết nước, vét bùn đáy ao, sau đó tiến hành diệt tạp, bón vôi, phơi ao. Trước tiên dùng vôi bột với liều dùng từ 70 - 100kg/1000m2 rải đều bề mặt ao. Sau đó phơi ao 2-5 ngày để tăng hiệu quả diệt tạp khử trùng của vôi, ngoài ra vôi còn có tác dụng ổn định pH và cung cấp canxi.
Sau khi phơi ao, chuẩn bị lưới chắn ở cống với kích thước mắt lưới nhỏ để lọc nước vào ao, không cho phép có sự xâm nhập của những loài khác. Khi đạt đủ mực nước, dùng các sản phẩm như Gluta S hay Iodine Violet để diệt cá tạp, sát trùng, diệt một số mầm bệnh tồn tại sẵn trong nước.
Cá rô phi rất cần thức ăn tự nhiên trong suốt thời gian sinh trưởng của nó bởi vì chúng là loài ăn tạp. Do đó, sau 48 giờ xử lý ao với sản phẩm diệt khuẩn, dùng Holotos để tạo thức ăn tự nhiên trong ao, cung cấp các acid amin cần thiết và gây màu nước với 1kg/2000-4000m3 nước.
Kiểm tra lại các thông số môi trường, sau đó tiến hành chọn và thả giống.
Chọn những cơ sở có uy tín, chất lượng, có kiểm dịch đầy đủ của cơ quan có thẩm quyền ở địa phương.
Chọn những cá thể đồng đều, cân xứng, không xây xát, mất nhớt, màu sắc tươi sáng, bơi lội nhanh nhẹn, hoạt động mạnh mẽ.
Cá giống chứa trong bao ny lông có bơm oxy để vận chuyển đến ao, trước khi thả phải ngâm túi dưới ao 15-20 phút để cân bằng nhiệt độ trong và ngoài túi, không làm cá sốc nhiệt. Với ao có độ mặn lớn 15 phần nghìn, phải thuần mặn trước khi thả, đổ cá vào thau, cho nước mặn vào từ từ, cách một tiếng nâng 2-3 phần nghìn cho tới khi bằng với độ mặn của ao.
Để phòng ngừa cá bị bệnh do ngoại ký sinh trùng trước khi thả cá xuống ao nuôi nên tắm cho cá bằng nước muối 2-3% (20-30g/1lít nước) trong 3-5 phút.
Thả cá tốt nhất là vào sáng sớm, thả ở đầu gió, mở một đầu túi cho cá tự bơi ra ngoài.
Cỡ cá giống thường từ 4-6cm. Trong điều kiện chăm sóc và quản lý tốt có thể nuôi ở mật độ 3-5 con/m2. Trong nuôi cá rô phi thâm canh công nghiệp, có máy quạt nước với mật độ 5-10 con/m2. Ngoài ra có thể thả nuôi trong ao nhỏ với mật độ 15-20 con/m2, sau một tháng chuyển sang ao lớn hơn, giảm mật độ.
Tùy theo quy mô nuôi mà chọn thức ăn phù hợp. Thức ăn công nghiệp phải xem xét giá cả thích hợp, có thể sử dụng thức ăn tự chế cho cá bao gồm các thành phần cám nhuyễn, bột cá, bột đậu nành, bột bắp, rau xanh,... Các nguyên liệu trên được nấu chín, để nguội rồi cho vào máy ép thành sợi.
Nên trộn thêm Bio Bactil với 2-3 ml/kg thức ăn để tạo hệ vinh sinh vật có lợi trong đường ruột cá, giúp hấp thu và tiêu hóa tốt hơn, ngừa một số bệnh do vi khuẩn và tăng cường khả năng miễn dịch.
Tháng đầu: lượng thức ăn trong tháng bằng 3-5% trọng lượng đàn cá. Tháng thứ 2: lượng thức ăn trong ngày bằng 2-3% trọng lượng đàn cá. Tháng thứ 3 trở đi: lượng thức ăn trong ngày bằng 0,5-1% trọng lượng cá.
Định kỳ hoặc khi thời tiết xấu phải bổ sung C vitan để cung cấp vitamin C giúp cá trao đổi chất tốt hơn, giảm stress, giảm tỷ lệ hao hụt trong quá trình nuôi. (1kg cho 1500-2000m3 nước)
Nên có sàng ăn để giảm thất thoát thức ăn và theo dõi được sức ăn của cá để có những thay đổi phù hợp. Chài cá kiểm tra thường xuyên 10-15 ngày/lần để điều chỉnh lượng thức ăn.
Cá rô phi sống trong môi trường nước, do đó khi bất cứ yếu tố chất lượng nước nào thay đổi cũng không nhiều thì ít làm ảnh hưởng đến cá nuôi. Đo, kiểm tra thường xuyên để kịp xử lý khi bất thường xảy ra.
Tu sửa bờ ao, hệ thống cấp thoát nước. Đối với những ao nuôi thâm canh mật độ cao cần bố trí quạt nước hoặc máy sục khí trong ao để cung cấp oxy cho ao vào những thời điểm oxy bị thiếu (thường vào khoảng 12 giờ đêm đến 5 giờ sáng).
Từ tháng thứ hai trở đi, mỗi tháng nên thay nước 2-3 lần, mỗi lần 30%. Ngoài ra khi độ trong quá thấp hoặc có nhiều bọt khí ở góc ao cuối gió cũng cần thay nước với khoảng 40-50%.
Sau thời gian nuôi 5 - 7 tháng, cá đạt kích thước 0,4 - 0,6 kg/con thì tiến hành thu hoạch. Có thể thu tỉa lần đầu những con đạt tiêu chuẩn, sau đó chăm sóc tiếp số lượng cá còn lại và thu hết trong đợt tiếp theo.
Khi thu hoạch phải ngừng cho cá ăn trước một ngày. Nếu lớp bùn đáy ao quá dày, có mùi hôi sẽ ảnh hưởng đến chất lượng thịt, vào tháng cuối vụ cần xử lý đáy bằng chế phẩm sinh học Sivibac để phân hủy hữu cơ đáy ao.
Ghi nhận sản lượng và kích thích để rút kinh nghiệm trong những vụ sau.
Hội chứng chết đen thân có liên quan đến hiện tượng thiếu vitamin C