Bài viết này mô tả thể Vermiform. Đây là một “vật thể” lạ, được tìm thấy nhiều trong gan tụy khi tôm bị phân trắng. Bề ngoài vermiform nhỏ, thấy được qua kính hiển vi, bao gồm nhiều màng mỏng độc lập, kết hợp lại với nhau thành một thể liền mạch. Vậy đây có phải là một mầm bệnh thực thụ trên tôm như virus, vi khuẩn, nấm hay ký sinh trùng không?
Hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) cũng gây thiệt hại nặng nề cho ngành nuôi tôm toàn Châu Á, không kém gì phân trắng. Đến 2013 thì tác nhân gây bệnh mới được chỉ đích danh là vi khuẩn vibrio parahaemolyticus, với một đặc điểm duy nhất là dịch bệnh này lây lan ồ ạt và gan tụy tôm nhiễm vi khuẩn bị bong tróc ở các tế bào phần giữa lớp biểu mô.
Gan tụy của tôm nhiễm hội chứng AHPND là bộ phận bị biến đổi nhiều nhất. Khi càng kiểm tra, các chuyên gia càng phát hiện có nhiều thể Vermiform. Với bề ngoài giống “một quả lựu đạn” nằm khít bên trong ống gan tụy trên cả tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Khi đã đạt đủ số lượng cần thiết thì sẽ làm xuất hiện các chuỗi phân trắng trong ao tôm từ tháng thứ 2 trở đi. Và từ đây, các thể vermiform này bị nghi ngờ chính là căn nguyên của hội chứng phân trắng (WFS).
Các biện pháp an toàn sinh học ở các hệ thống nuôi chưa được chặt chẽ, chưa đủ sức chống lại sự xâm nhập của mầm bệnh bên trong lẫn bên ngoài. Do đó, có hai khả năng, một là vermiform tạo ra bởi các tác nhân từ bên ngoài, hai là do các mầm bệnh có sẵn trong cơ mà tôm bị nhiễm trước đó.
Ở đây, vermiform được mô tả chi tiết về cấu tạo và hình dạng. Chúng không độc lập mà tập hợp thành tập đoàn, do các vi nhung mao biến đổi, bong tróc ra từ các tế bào biểu mô ống gan tụy tôm mà thành. Vermiform còn có thể tích tụ trong cả đường ruột trước khi được thải ra ngoài theo phân. Nhiều mẫu tôm còn không có vẻ gì là đã nhiễm bệnh nhưng vẫn phát hiện được nhiều thể vermiform trong gan tụy.
Đến 96% tôm nhiễm phân trắng được phát hiện trong gan tụy chứa thể vermiform, với kích thước gần như khớp với lòng trong các ống gan tụy. Vermiform không hề có tế bào và cũng không có thành phần nào có đặc điểm của tế bào. Mà chúng chỉ chứa những “tấm màng” mỏng, là những mảnh rải rác xen kẽ các thành phần bị bong tróc, kết hợp và ngưng tụ trong 1 lớp bao bọc bên ngoài. Sau đó nhiều thể vermiform cùng tích tụ tại trung tâm các ống gan tụy.
Trước khi có nghiên cứu này, vermiform được mô tả là giống với gregarine về cấu tạo và hình dạng. Tuy nhiên, chưa có tài liệu nào kết luận gregarine lại trùng với kết quả mô tả vermiform ở hiện tại. Cụ thể, vermiform không thể vận động và thiếu các bào quan để cấu thành cơ thể. Chúng là những thành phần bị bong tróc, xuất phát từ vi nhung mao của tế bào biểu mô ống. Chứ không hề giống với với cấu tạo của một ký sinh trùng. Quá trình bong tróc gan tụy chỉ ra rằng sự hình thành vermiform là do bệnh lý.
Như vậy có thể kết luận rằng những trường hợp bị phân trắng nghiêm trọng là do sự hình thành quá nhiều vermiform trong cơ thể tôm. Dù chưa biết chúng xuất phát từ đâu, nhưng việc áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp một cách chặt chẽ là điều rất quan trọng. Khi mật độ vi khuẩn quá cao, một cách đúng theo cả lý thuyết lẫn thực tiễn đó là bổ sung thêm Acid hữu cơ Nutric vào trong thức ăn.
Do sự cộng hưởng của các loại acid hữu cơ, thảo dược tự nhiên và prebiotic thì ngoài tác dụng kháng khuẩn, loại bỏ các tác nhân gây bệnh, Nutric còn có thể làm phục hồi các mô tổn thương trong đường ruột, giảm bớt số lượng vermiform trong gan tụy, kích thích sự phát triển của hệ vi sinh vật có lợi, cạnh tranh tốt hơn về thức ăn và chỗ bám với vi khuẩn có hại. Nhờ đó mà điều trị hiệu quả hơn những bệnh về đường ruột như phân lỏng, phân đứt khúc, phân trắng.
Tôm không tổng hợp được Vitamin C nên hoàn toàn lệ thuộc vào thức ăn.