Nuôi tôm thâm canh hay thường được gọi là nuôi tôm công nghiệp hình thành và phát triển ở Việt Nam từ năm 1997.
Nghề nguôi tôm trên thế giới bắt đầu cách đây vài thế kỹ. Khi đó những người nông dân bắt đầu thu hoạch lượng tôm 100-200kg/ha mỗi năm mà không phải làm gì thêm từ các ao nuôi cá.
Nhưng như vậy là chưa đủ, người ta luôn mong muốn thu hoạch hiều hơn con số trên do nhu cầu ăn tôm của còn người là rất lớn trong khi đó sản lượng tôm đánh bắt thì giảm dần. Mặc dù muốn có nhiều tôm hơn để bán nhưng họ không thể làm gì khác khi những hiểu biết về tôm vẫn còn hạn hẹp ở thời điểm này.
Năm 1934 tiến sỹ người Nhật là Motosaku Fujinaga đã thành công trong việc kích thích sinh sản cho tôm he Nhật Bản từ ấp nở trứng đến ương nuôi ấu trùng từ giai đoạn Naupli sang Mysis. Thành công bước đầu này và những nghiên cứu được phát triển tiếp theo của Fujinaga là nền tảng của công nghệ nuôi tôm và ông được xem là cha đẻ của nghề nuôi tôm.
Những thành tựu của Tiến sỹ Fujinaga và các cộng sự của ông có tầm ảnh hưởng to lớn và lâu dài cho ngành tôm nuôi. Thành công này cho phép sản xuất tôm ở giai đoạn hậu ấu trùng ở quy mô thương mại cho các chương trình nuôi và tái tạo. Mặc dù đã đạt được thành công đáng kể tại Nhật Bản, nhưng nghề nuôi tôm chỉ gói gọn ở loại tôm he và điều kiện thời tiết và đất đai không được thiên nhiên ưu đãi của Nhật Bản.
Đến những năm 1960, làn sóng phát triển thứ hai của ngành tôm bắt đầu trỗi dậy khi các nhà khoa học cố gắng chuyển giao các phương pháp của Tiến sỹ Fujinaga sang các khu vực khác và nhiều loài khác. Địa điểm chuyển giao ban đầu là Mỹ và Đài Loan.
Trong số các loài tôm thuộc họ tôm he (Penaeid) thì tôm sú (Penaeus monodon) là loài có sự tăng trưởng nhanh nhất và khả năng thích ứng tốt nhất với các điều kiện canh tác. Kỹ thuật nuôi thâm canh tôm sú đã nhanh chóng lan rộng khắp châu Á và thành loài thống trị của tôm nuôi. Trong những năm 1980, năng suất nuôi tôm sú thâm canh hiếm khi dưới mức 10 tấn/ha, cỡ tôm khoảng 30 gram/con, sử dụng tôm bố mẹ tự nhiên. Tuy nhiên, dịch bệnh gia tăng trong các quần đàn tôm tự nhiên khiến chất lượng giống liên tục sụt giảm.
Trong những năm 1990, dịch bệnh Hội chứng đốm trắng lan rộng trên toàn cầu, do đó việc xem xét lại các biện pháp vệ sinh và an toàn sinh học là điều cần thiết. Đúng lúc đó, Hiệp hội Nuôi tôm biển Mỹ đã phát triển ra một dòng tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) sạch bệnh mới và giới thiệu sang châu Á. Loại tôm sạch bệnh này được nuôi trong ao và cho năng suất cao. Nông dân nhanh chóng chuyển từ tôm sú tự nhiên, mang nhiều bệnh sang nuôi tôm thẻ chân trắng, sạch bệnh. Đồng thời, thay đổi phương pháp sản xuất để giảm nguy cơ dịch bệnh bằng cách giảm thay nước, khử trùng nước và không sử dụng sinh vật tự nhiên làm thức ăn.
Nghề nuôi tôm đang phải đối mặt với nhiều thách thức như dịch bệnh, nguồn tài nguyên co hẹp và chi phí ngày càng tăng. Thị trường tôm đang phát triển theo hướng chú trọng hơn đến chất lượng, chứng nhận phát triển bền vững và truy xuất nguồn gốc. Lịch sử của nghề nuôi tôm cho thấy, để duy trì khả năng cạnh tranh, các nhà sản xuất phải liên tục nâng cao năng suất và hiệu quả trong mọi quá trình của chuỗi cung ứng, bao gồm cả vấn đề về sức khỏe, trại giống, chăn nuôi, quản lý ao, xây dựng nguồn cấp dữ liệu, hệ thống thông tin, chế biến và giấy chứng nhận thực hành để quảng bá người mua...
Dịch bệnh do virus có ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành tôm từ những năm 1980 cho đến cuối thế kỷ 20, nhưng chính điều này lại khiến cho việc thắt chặt trong vấn đề quản lý để nâng cao hiệu quả và giảm sự phụ thuộc vào nguồn lợi tự nhiên được tăng cường. Một trong bước ngoặt đáng chú ý là sự chuyển biến khi châu Á chuyển từ tôm sú với giống tự nhiên sang tôm thẻ chân trắng được cải thiện gen và sạch bệnh.
Từ những khó khăn này nghề nuôi tôm đã phải dần hoàn thiện mình về mặt kỹ thuật cả về quản lý. Bức tranh nghề nuôi tôm trong tương lai là giảm dần sự phụ thuộc vào thiên nhiên và con người; Giảm tác động đến môi trường; Minh bạch trong nguồn gốc. Để làm được điều này những nhà nghiên cứu bắt đầu thử nghiệm những mô hình nuôi mới với diện tích nuôi tối ưu kiểm soát, ứng dụng công nghệ điều khiển tự động, hoàn thiện hệ thống tái sử dụng nước và công nghệ truy xuất nguồn gốc hiện đại.
Những thử nghiệm đầu tiên trong sản xuất giống tôm biển (Penaeus merguiensis và P. penicillatus) đã được tiến hành vào những năm 1970 ở miền Bắc Việt Nam.
Trong khoảng 1984 – 1985, tôm sú (P. monodon) đã được sản xuất thành công tại các tỉnh miền Trung. Ở đồng bằng sông Cửu Long, sản xuất các loài tôm giống bản địa (P. merguiensis và P. indicus) bắt đầu vào năm 1988 và sau đó đã chuyển đổi phần lớn sang tôm sú năm 1997.
Tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương (P. vannamei) đã được đưa vào Việt Nam năm 2000 và nhanh chóng phát triển nuôi ở các tỉnh miền Trung, kể từ năm 2007, nhờ những thành công bước đầu tôm thẻ chân trắng đã lan rộng vào đồng bằng sông Cửu Long.
Hiện nay tôm thẻ chân trắng được nuôi phầm lớn ở hình thức thâm canh và siêu thâm canh chỉ một số lượng ít thả nuôi trong các ao nuôi quảng canh cải tiến. Tôm sú dần ít được người nuôi tôm thâm canh chú ý hơn nên phần lớn được nuôi ở hình thức quảng canh, tôm rừng, tôm lúa...